site hit counter
HỘI ĐỒNG HỌ TRƯƠNG VIỆT NAM
Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu (1752 - 1827)
26/04/2024 Tác giả: Lượt xem: 895
(Các bài viết khác của tác giả )
Trương Tấn Bửu (chữ Hán: 張進寶, 1752 - 1827), có tên khác là Trương Tấn Long (張進隆); là một danh tướng của chúa Nguyễn Phúc Ánh trong lịch sử Việt Nam. Nhờ lập được nhiều công lao, ông được phong tước Long Vân Hầu và được người đương thời liệt vào Ngũ hổ tướng Gia Định.

Ông sinh ở làng Hưng Lễ, tổng Bảo Phước, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre); và là con thứ ba (gọi theo người miền Nam là con thứ tư) của ông Trương Tấn Khương và bà Trần Thị Nghĩa.

Thời trai trẻ, Trương Tấn Bửu đã nổi tiếng là người tuấn tú, có sức mạnh vô song, dám đương đầu với cọp.

Năm Đinh Mùi (1787), lúc chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Ánh) chạy trốn quân Tây Sơn, có ghé nhà cha ông tạm trú một đêm. Gặp dịp, ông xin theo phò tá [1]. Nhưng vừa ra khỏi nhà, ông gặp ngay trận chiến ác liệt. Nhờ sự thông minh và lòng dũng cảm, ông cứu thoát được chúa Nguyễn.

Sau đó, ông được làm cai cơ, thuộc đạo quân của Tôn Thất Hội.

Tháng 6 năm Canh Tuất (1790), thăng ông chức Hậu quân Hậu chi Chánh chưởng chi, rồi đổi qua Chưởng quản Tiền quân.

Tháng 2 năm Đinh Tỵ (1797), lập được nhiều chiến công ở Bình Định, Hội An, ông được thăng chức Tiền quân Phó tướng.

Năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi (Gia Long), phong ông làm Chưởng dinh, quản lĩnh đạo quân Bắc Thành.

Năm 1806, có công dẹp bọn cướp biển Tàu Ô, ông được thăng làm Trung quân kiêm Tả quân Phó tướng, quyền lãnh chức Tổng trấn Bắc Thành, thay Nguyễn Văn Thành.[2].

Năm Canh Ngọ (1810), ông lại được bổ vào Gia Định, quyền lãnh chức Tổng trấn, đến năm 1812, thực thụ Phó Tổng trấn Gia Định.

Năm 1816, ông đốc suất đắp thành Châu Đốc rồi được điều về Huế làm Trung quân phó tướng.

Năm Nhâm Thân (1821), ông lại được cử làm Phó Tổng trấn Gia Định Thành lần thứ hai.

Năm Nhâm Ngọ (1822), ông được thăng Chánh nhất phẩm, thân phụ ông cũng được vua Minh Mạng ban sắc truy phong là Nghiêm oai tướng quân, Trung quân Thống chế và mẹ ông cũng được truy phong vào hàng mệnh phụ phu nhân.

Năm Quý Mùi (1823) [3], theo lệnh của Lê Văn Duyệt, ông chỉ huy khoảng 35.000 quân và dân lo nạo vét kênh Vĩnh Tế cùng với Thoại Ngọc Hầu, rồi chẳng bao lâu sau ông bịnh, xin về hưu vào ngày 17 tháng 11 năm Ất Dậu (1825).

Tuy hưu trí, nhưng ông được vua Minh Mạng cho hưởng lương bổng đầy đủ. Ngày 2 tháng 8 năm 1827 (10 tháng 6 âm lịch năm Đinh Hợi) ông mất, thọ 75 tuổi.

Vua nhà Nguyễn đã lệnh cho Lê Văn Duyệt đứng làm chủ lễ, cấp đất chôn và xuất hai ngàn quan tiền, năm cây gấm tốt để giúp vào việc tống táng. Đến đời Tự Đức năm thứ 5 (1852), ông được thờ vào miếu Trung hưng công thần và đền Hiền lương.

Hiện nay ở đường Nguyễn Thị Huỳnh, quận Phú Nhuận, (Thành phố Hồ Chí Minh) còn miếu và mộ ông.
 


Mộ long Vân Hầu Trương Tấn Bửu




Khu Lăng mộ Long Vân Hầu Trương Tấn Bửu tại Phú Nhuận

Chú thích

  1. Theo Huỳnh Minh, Kiến Hòa xưa, (Nxb Thanh Niên, 2001, tr. 118) và Diên Hương, Thành ngữ điển tích từ điển, (Nxb Đồng Tháp, 1992, tr. 410).
  2. Ghi theo Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam [1] Gia Định xưa. Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam ghi thay Lê Chất là không đúng, vì mãi đến năm 1810, ông Chất mới làm Hiệp tổng trấn Bắc Thành, cùng với Nguyễn Huỳnh Đức, Phạm Như Đăng và đến năm 1818, ông mới lên làm Tổng trấn Bắc Thành.
  3. Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam ghi: Năm 1823, thay Lê Văn Duyệt làm tổng trấn Gia Định Thành, là không đúng.[2]. Vì năm ấy, chức Tổng trấn Gia Định Thành vẫn do ông Duyệt nắm giữ. (Lê Văn Duyệt làm Tổng trấn Gia Định hai lần: từ 1813 đến 1816 dưới triều vua Gia Long và từ 1820 đến 1832 dưới triều vua Minh Mạng). Sách Địa chí văn hóa TP. HCM phần Lịch sử cũng đã ghi rõ: Trương Tấn Bửu làm "Phó Tổng trấn" từ năm 1812 đến 1815 (Nxb Tp. HCM, 1987, tr. 197).

 

 

COMMENTS
Chức năng này cần phải đăng nhập