site hit counter
HỘI ĐỒNG HỌ TRƯƠNG VIỆT NAM
Bài ký trên Văn bia số 35 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội
01/11/2024 Tác giả: Trương Quốc Chính. 0913070587. Email: Quocchinh_cand@yahoo.com.vn Lượt xem: 14787
(Các bài viết khác của tác giả Trương Quốc Chính. 0913070587. Email: Quocchinh_cand@yahoo.com.vn)
Nội dung bài ký trên văn bia số 35, tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội ghi lại việc thi cử, tuyển chọn người tài, và vinh danh các Tiến Sĩ đỗ trong khoa Canh Thìn niên hiệu Dương Hòa năm thứ 6 (1640). Trong văn bia có ghi về cụ Trương Quang Tiền (1615-1677) người xã Kim Hoạch, huyện Thụy Nguyên (nay thuộc xã Thiệu Phúc, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Ông làm quan Đông các Hiệu thư, tước Mai Lâm tử. Sau ông đổi tên là Trương Luận Đạo
Nội Dung Bài Ký Trên Văn Bia Số 35
 

VĂN BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA CANH THÌN
NIÊN HIỆU DƯƠNG HÒA NĂM THỨ 6 (1640)
 
Niên hiệu Dương Hòa vào năm Canh Thìn, gặp thời nước nhà thịnh trị, chính buổi trọng danh hiền.
Kính nay Hoàng thượng bệ hạ, thánh đức càng cao, xuống chiếu tiến cử người hiền. Thực nhờ Đại nguyên súy Thống quốc chính Sư phụ Thanh vương đào tạo thực học, chỉnh đốn kỉ cương, trị bình ngày sáng, anh tài như mây họp. Bèn vào mùa xuân năm ấy mở khoa thi Hội. Kẻ sĩ văn học bốn phương hát thơ Lộc minh mà đến, cùng nhau tranh đua tài nghệ ở chốn xuân vi đông đến trên 6.000 người. Quan hữu ty chọn được hạng trúng cách 22 người ghi tên tâu lên.
Hôm sau vào Điện thí, Hoàng thượng ngự ở hiên điện đích thân ra bài văn sách. Sai Đề điệu là Thiếu bảo Lan Quận công Hoàng Nghĩa Phì, Tri Cống cử là Lại bộ Tả Thị lang Thọ Hải hầu Trần Hữu Lễ, hai viên Giám thí là Lễ bộ Hữu Thị lang Cẩm Lộc tử Nguyễn Bình, Ngự sử đài Thiêm Đô Ngự sử Phúc Xuyên nam Nguyễn Thọ Quyến chia giữ các việc.
Đến khi dâng quyển lên đọc, Hoàng thượng xét duyệt và định thứ bậc. Cho bọn Phí Văn Thuật 2 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Hoàng Vinh 20 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân.
Ngày hôm đó, Bộ Lễ đem bảng vàng treo trước cửa nhà Thái học. Sĩ tử và dân chúng trong nước xúm đến xem bảng, đều vui mừng cho là văn vận hanh thông, chân Nho nối nhau xuất hiện, thật là sự kiện lớn lao trong đời thái bình. Việc ban ơn theo thứ bậc đều theo lệ cũ, duy việc khắc đá đề danh chưa kịp cử hành. Nay sai quan Bộ Công mài đá khắc tên, sai từ thần chia soạn bài ký. Bọn thần kính vâng mệnh sáng, kính cẩn cúi đầu rập đầu dâng lời rằng:
Trời đất sinh nuôi muôn vật, ắt phải để cho trải qua bốn mùa mới được thành công; các bậc đế vương vỗ về bốn phương, ắt phải cầu tìm hiền tài giúp trị. Cho nên không bỏ sót người hiền ở chốn đồng quê mà nhà Ngu mới có cuộc trị bình tươi sáng. Vua có nhiều bậc tài giỏi mà nhà Chu mới đạt đến sự tốt đẹp yên vui. Xét các thời đại xưa, chưa từng có vị vua nào muốn cho trong nước trị an mà không lấy việc dùng hiền tài, kén chọn kẻ sĩ làm công việc hàng đầu.
Kính nghĩ: Thánh triều Thái Tổ Cao hoàng đế trí dũng trời ban, kinh luân gồm đủ, đặt trường Giám để đào tạo nhân tài, ra bài hỏi sách lược để kén chọn kẻ sĩ, nhân tài thăng tiến bắt đầu từ đây.
Thái Tông Văn hoàng đế là bậc chí nhân, giữ gìn nghiệp lớn, lòng đại hiếu làm bậc giỏi kế thừa, bắt đầu năm Nhâm Tuất mở khoa thi cầu tìm người hiền giúp trị.
Nhân Tông Tuyên hoàng đế đặt thêm sáu quán để nuôi dưỡng nhân tài trong nước, đặt phép thi ba khoa để chọn hạng sĩ tử siêu quần, nhân tài nhờ thế vẻ vang tiến tới.
Thánh Tông Thuần hoàng đế đạo tỏa đất trời, sáng như nhật nguyệt. Tiến sĩ có sách đăng khoa làm phép tắc muôn đời, đề danh có bia treo gương muôn thuở, nhân tài nhờ thế mà thịnh vượng.
Từ đó về sau, con thần cháu thánh nối tiếp kế thừa, nếp cũ khuôn xưa ra sức noi giữ. Tuy giữa chừng gặp bước gian truân, nhưng chính thống của tiên vương vẫn còn. Trang Dụ hoàng đế, Trung Tông Vũ hoàng đế, Anh Tông Tuấn hoàng đế mưu lược dấy nghĩa như Thiếu Khang nhà Hạ, dựng nên cơ nghiệp như Hán Cao Hoàng, cất nhắc trọng dụng lựa dùng hiền sĩ cùng lo sắp đặt kỷ cương. Thực nhờ Thế Tổ Minh Khang thái vương giúp vầng nhật nguyệt, dựng lại quốc gia, chiêu nạp hào kiệt, xếp đặt đầy đủ chức quan, mở Chế khoa chọn lựa nhân tài mà danh sĩ tài giỏi như mây dồn kéo đến.
Kính Tông Huệ hoàng đế ứng vận trời thuận người theo, vỗ yên dân chúng trong nước, thu nạp hiền tài để mở nền thịnh trị. Thực nhờ Thành Tổ Triết vương khôi phục cơ đồ, giữ yên xã tắc, dựng quy mô to lớn cho đời sau, mở trường thi để tìm người giỏi mà các bậc danh nhân học rộng lớp lớp tiến lên, đến nay lại càng đông đảo.
Kính nghĩ: Hoàng thượng bệ hạ kế thừa mệnh sáng, nối giữ nghiệp lớn, sớm hôm lo lắng, chăm chú cầu hiền. Thực nhờ [Đại nguyên súy Thống quốc chính Sư phụ Thanh vương] điểm tô nền thái bình, khôi phục mở mang triều chính, đảm đương trách nhiệm quốc gia, thu nạp hiền tài thiên hạ, giao trọn quyền cho [Nguyên súy Chưởng quốc chính Tây Định vương] mở khoa thi kén kẻ sĩ, dùng người tài để thi hành chính sự. Đang lúc việc trị đã yên, cơ nghiệp giữ gìn vẹn toàn, chế độ có việc gì chưa đủ thì lo tìm cách làm cho đầy đủ. Đặc biệt nghĩ đến việc từ lúc khôi phục đến nay, các khoa thi Chế khoa, Tiến sĩ chưa kịp khắc đá đề danh, chưa tỏ được ý biểu dương khuyến khích, thế thì làm sao hoàn thành được việc người trước chưa hoàn thành, làm cho đầy đủ những việc tiên thánh chưa làm đủ? Vì thế [sai] viết bài ký khắc vào bia đá tốt, đặt ở cửa nhà Thái học để khuyến khích kẻ sĩ. Lòng yêu mến tin cậy thật rất lớn lao, chế độ hết sức đầy đủ, thật xưa nay mới lại được thấy!
Vả lại khoa này, những người có tài văn võ ra giúp thời thịnh sáng, cả trong triều ngoài phủ, trên bước đường làm quan trải thăng trầm thay đổi đều thận trọng giữ gìn chức vụ, luận bàn khoáng đạt đúng đắn, công danh sự nghiệp càng lâu càng rạng rỡ. Còn những kẻ trước sau sai khác, ngoài ngọc trong đá, ngoài cứng trong mềm, trước hay sau dở, thì về sau những người tới xem bia này sẽ chỉ vào tên mà nói: người này là bậc quân tử chính trực, người kia là kẻ tiểu nhân gian tà, công luận rõ ràng, danh tiết nghiêm buốt, há chẳng nên thận trọng sao!
Thế thì bia đá này là cột trụ của danh giáo, nền tảng của cương thường, hễ ai nhìn vào sẽ thấy rõ chuẩn đích, trong lòng nảy ý tự răn đe, càng có ích cho cuộc thái bình thịnh trị ức muôn năm của nước nhà vững như Thái Sơn vậy.
Thần kính cẩn dâng bài ký.
Dực vận Tán trị công thần Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Thượng thư Bộ Lễ kiêm Hàn lâm viện Thị giảng Tham Chưởng Hàn lâm viện sự Bạt Quận công thượng trụ quốc Dương Trí Trạch vâng sắc nhuận.
Quang tiến Thận lộc đại phu Hàn lâm viện Hiệu lý Vinh Giang nam Nguyễn Văn Lễ1 vâng sắc soạn.
Trung thư giám Hoa văn học sinh Nguyễn Lĩnh người xã Phù Chẩn huyện Đông Ngàn vâng sắc viết chữ (chân kiêm chữ triện).
Bia dựng ngày 16 tháng 11 niên hiệu Thịnh Đức thứ 1 (1653) Hoàng Việt.
Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, 2 người:
PHÍ VĂN THUẬT, người xã Thượng Trưng huyện Bạch Hạc.
TRẦN NGỌC HẬU, người xã Lạc Đạo huyện Gia Lâm.
Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 20 người:
HOÀNG VINH, người xã Đại Hoàng huyện Chân Định.
DƯƠNG HẠO, người xã Lạc Đạo huyện Gia Lâm.
TRƯƠNG QUANG TIỀN, người xã Kim Hoạch huyện Thụy Nguyên.
NGUYỄN TÍNH, người xã Hoa Cầu huyện Văn Giang.
NGUYỄN CÔNG TẠO, người xã Đại Bái huyện Gia Định.
NGUYỄN VĂN QUẢNG, người xã Sơn Đồng huyện Đan Phượng.
LÊ BỈNH TRUNG, người xã Nguyệt Viên huyện Hoằng Hóa.
TRỊNH LƯƠNG BẬT, người xã Lỗ Xá huyện Cẩm Giàng.
LÊ NHÂN TRIỆT, người xã Cổ Đôi huyện Nông Cống.
LÊ KIÊM, người xã Bái Cầu huyện Hoằng Hóa.
TRỊNH VĂN TUẤN, 14 người xã Tuấn Kiệt huyện Thụy Nguyên.
ĐỖ VĂN TỔNG, người xã Thượng Yên Quyết huyện Từ Liêm.
ĐẶNG THUẦN NHÂN, người xã Cẩm Sơn huyện Cẩm Giàng.
PHẠM ĐẬU, người xã Thái Thạch huyện Thanh Miện.
NGUYỄN VĂN SUYỀN, người xã Chỉ Châu huyện Thạch Hà.
NGÔ NHÂN TUẤN, người xã Vọng Nguyệt huyện Yên Phong.
TRẦN VĂN TUYỂN, người xã Hoàng Ma huyện Yên Dũng.
QUÁCH ĐỒNG ĐỨC, người xã Phù Khê huyện Đông Ngàn.
VŨ VINH TIẾN, người xã Phù Ủng huyện Đường Hào.
NGUYỄN NHƯ UYÊN, người xã Thụy Trang huyện Đường Hào.


 
Văn bia số 35 - Đề danh Tiến Sĩ khoa Canh Thìn niên hiệu Dương Hòa năm thứ 6 (1640)
COMMENTS
Chức năng này cần phải đăng nhập