site hit counter
HỘI ĐỒNG HỌ TRƯƠNG VIỆT NAM
Bài ký trên Văn bia Số 10 tại Văn Miếu - Quốc tử giám, Hà Nội
24/04/2024 Tác giả: Trương Quốc Chính. 0913070587. Email: Quocchinh_cand@yahoo.com.vn Lượt xem: 977
(Các bài viết khác của tác giả Trương Quốc Chính. 0913070587. Email: Quocchinh_cand@yahoo.com.vn)
Tiếp theo bài viết về các Tiến sĩ họ Trương được vinh danh tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội. Ban quản trị trang mạng họ Trương Việt Nam xin giới thiệu tới bà con, anh chị em họ Trương và độc giả lần lượt tiếp nội dung 10 bài ký trên 10 văn bia vinh danh các Tiến sĩ họ Trương, trong hệ thống 82 văn bia tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám, Hà Nội.
           Nội dung bài ký trên văn bia số 10, tại Văn Miếu- Quốc Tử Giám, Hà Nội ghi lại việc thi cử, tuyển chọn người tài, và vinh danh các Tiến Sĩ đỗ trong khoa thi Nhâm Tuất, niên hiệu Cảnh Thống năm thứ 5 (1502). Trong văn bia có ghi về cụ Trương Đức Quang, người xã Ngọc Xuyết huyện Hoằng Hóa (nay thuộc huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Cụ đã đỗ đệ nhị giáp xuất thân cùng với 24 người khác.
           Sau khi thi đỗ, cụ làm quan Đề hình Giám sát Ngự sử và từng được cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc).


 
Nội Dung Bài Ký Trên Văn Bia Số 10
 
VĂN BIA ĐỀ DANH TIẾN SĨ KHOA NHÂM TUẤT
 NIÊN HIỆU CẢNH THỐNG NĂM THỨ 5 (1502)
 
           Mở khoa thi Tiến sĩ là quy chế đã định sẵn để kén chọn kẻ sĩ, khắc đá đề danh cốt để rộng rãi khuyến khích nhân tài. Các triều trước đều lấy đó để làm sáng tỏ nhân văn, thánh triều cũng lấy đó để nâng cao hiệu quả trị đạo. Đại khái kinh điển giáo hóa lớn của triều đình hàm chứa trong đó, đâu phải chỉ để ghi sự việc cho đẹp mắt mà thôi đâu!
           Mùa xuân năm Nhâm Tuất niên hiệu Cảnh Thống thứ 5 (1502), Bộ Lễ theo lệ cũ, mở khoa thi Hội các Cử nhân trong nước, số dự thi đông đến 5000. Qua bốn trường lấy trúng cách được 61 người, đưa tên dâng lên. Hoàng thượng đích thân hỏi thi ở sân rồng. Sai Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân Đô đốc phủ Tả Đô đốc Nam quân Phò mã đô uý Lâm Hoài bá Trụ quốc Lê Đạt Chiêu, Hộ bộ Thượng thư Vũ Hữu, Binh bộ Tả Thị lang Dương Trực Nguyên, Ngự sử đài Thiêm Đô Ngự sử Bùi Xương Trạch chia giữ các việc. Lễ bộ Thượng thư Tả xuân phường Tả dụ đức kiêm Đông các Đại học sĩ Đàm Văn Lễ, Lễ bộ Thượng thư kiêm Hàn lâm viện Thị độc Chưởng Hàn lâm viện sự Nguyễn Bảo, Lễ bộ Tả Thị lang kiêm Đông các Học sĩ Lê Ngạn Tá; Quốc tử giám Tế tửu Hà Công Trình, Tư nghiệp Hoàng Bồi, Thái thường Tự khanh Nghiêm Lâm dâng quyển lên đọc. Hoàng thượng đích thân xem xét, ban cho bọn Lê Ích Mộc 3 người đỗ Tiến sĩ cập đệ, bọn Nguyễn Cảnh Diễn 24 người đỗ Tiến sĩ xuất thân, bọn Phạm Khiêm Ích 34 người đỗ đồng Tiến sĩ xuất thân.
           Tư thiên giám chọn ngày tốt, Hoàng thượng ngự điện Kính Thiên, sai truyền loa xướng tên người thi đỗ, trăm quan mặc triều phục chúc mừng. Mấy năm trước bảng vàng treo ngoài cửa Đông Hoa, năm nay sai Bộ Lễ rước bảng có trống nhạc dẫn trước, đem treo ngoài cửa nhà Thái học, cốt khiến cho sĩ tử nhìn thấy mà thêm phần khích lệ. Ân vinh ban theo thứ bậc, thảy đều theo lệ cũ. Quan Bộ Công theo lệ khắc đá đề danh để truyền tới lâu dài. Sai từ thần soạn bài ký. Thần là Đàm Văn Lễ kém cỏi, giữ trách nhiệm soạn thuật, không dám lấy cớ quê mùa chối từ.
           Thần trộm nghĩ: đời Thành Chu bắt đầu có khoa tuyển Tiến sĩ, đến đời Đường Tống rất thịnh hành, nhân tài nối nhau xuất hiện, nền chính trị mở mang đầy đủ, sách vở còn ghi chép rõ ràng có thể tra cứu được.
           Kính nghĩ liệt thánh triều ta, dựng nhà học, chuộng văn Nho, đặt khoa thi lấy học trò, mở nền thịnh trị thái bình muôn thuở. Sở dĩ có thể sửa sang thế đạo, tô điểm hoàng đồ, tôn cho vua được như Nghiêu Thuấn, khiến cho dân được như dân thời Đường Ngu, há chẳng phải do khoa mục chọn hiền tài mà đạt được hay sao?
           Kính nghĩ Hoàng đế bệ hạ, sự nghiệp nối tiếp hai vua, truyền thống kế thừa bốn thánh, chăm lo học đạo, trăn trở cầu hiền. Bao nhiêu điều quan yếu trong phép trị đạo của các đế vương thuở trước, cách thức cầu tìm hiền tài, phép thi cử chọn người đều được quán triệt, mở mang, trau dồi thêm đẹp. Quy phạm nghiêm ngặt, xử trí chặt chẽ, lựa chọn kỹ càng, thật đã chu đáo hết mức vậy. Nhờ thế danh sĩ tụ hội rất đông, người tài tìm đến, lựa chọn được nhân tài hơn hẳn mấy đời trước. Kẻ sĩ gặp thời cá nước, được hội gió mây. Người được dự vào hàng thị tòng, người vào ban gián nghị, hoặc sung chức ở các bộ các ti vẫn nên giữ tiết trung thành, trau dồi đức hạnh, nuôi ý chí, gắng sự nghiệp, bắt chước Cao, Quỳ, Chu, Thiệu, sánh hàng Hàn, Lục, Âu, Tô, tiếng để đời mình, công dành hậu thế, trên không phụ thịnh ý triều đình cất nhắc, dưới không phụ ý chí hoài bão thường ngày. Được như vậy thì tấm đá này khắc ra, càng lâu càng thêm sáng vậy. Nếu như sau trước khác nhau, ngoài là ngọc mà trong là đá, hoặc học tà như Công Tôn, hoặc biến tiết như Nguyên Chân, hoặc nham hiểm như Đinh Vị, hoặc gian tà như An Thạch, những điều người ta đọc thấy không giống như dư luận người ta đã nghe, việc làm trái với điều đã học, thì người đời sau xem bia sẽ chỉ vào tên mà chỉ trích chê cười, ngàn năm sau, tấm đá này đã bị tì vết thì làm sao có thể mài rửa được?
           Quyền vua phép nước ngời ngời, thanh danh giáo hóa nghiêm nghị, các bậc quân tử có thể nào lại không tự trọng hay sao!
         Thượng thư Bộ Lễ, Gia hạnh đại phu Tả xuân phường Tả dụ đức kiêm Đông các Đại học sĩ Khuông nghĩa doãn Đàm Văn Lễ vâng sắc soạn.
           Bia dựng ngày 10 tháng 11 niên hiệu Cảnh Thống thứ 5 (1502).
Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, 3 người:
LÊ ÍCH MỘC, người xã Thanh Lãng, huyện Thuỷ Đường, phủ Kinh Môn.
LÊ SẠN, người xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín. 35 tuổi.
NGUYỄN VĂN THÁI, người xã Tiền Liệt, huyện Vĩnh Lại.
Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân, 24 người:
NGUYỄN CẢNH DIỄN, người xã Yên Tử, huyện Tân Minh, phủ Nam Sách.
NGUYỄN ĐỨC KHÂM, người xã Uông Hạ, huyện Thanh Lâm, phủ Nam Sách.
NGUYỄN NHƯ CÔN, người xã Trại Sơn, huyện Giáp Sơn.
TRẦN DỰC, người xã Ngải Lăng, huyện La Sơn.
LÊ VĂN HỌC, người xã Đông Tháp, huyện Đông Thành.
HẠ NGỌC CHÚC, người xã Yên Duyệt, huyện Chương Đức.
NGUYỄN NGẠN, người xã Yên Khoái, huyện Phú Xuyên.
NGUYỄN VĨNH KIÊN, người xã Yên Ninh, huyện Cẩm Giàng.
ĐẶNG TUYÊN, người xã Lạc Dục, huyện Tứ Kỳ, phủ Hạ Hồng.
NGUYỄN BÁ TÙNG, người xã Tạ Xá, huyện Tứ Kỳ.
NGUYỄN ĐỐC, người xã Thổ Giá, huyện Nông Cống.
VŨ BÁ DUNG, người xã Thanh Giản, huyện Đường An.
VŨ CÁN, người xã Mộ Trạch, huyện Đường An.
NGÔ VĂN HUY, người xã Trâu Khê, huyện Đường An.
TRƯƠNG ĐỨC QUANG, người xã Ngọc Xuyết, huyện Hoằng Hóa.
NGUYỄN CHƯỞNG, người xã Thanh Thủy, huyện Tiên Phúc.
HOÀNG SĨ DỊCH, người xã Hoà Xá, huyện Lương Tài.
NGUYỄN VĂN HIẾN, người xã Vĩnh Thế, huyện Siêu Loại.
VŨ BÁ THẮNG, người xã Tiêu Sơn, huyên Yên Phong.
MAI ĐỨC BÁ, người xã Thạch Lỗi, huyện Thạch Hà.
NGUYỄN TỰ, người xã Vĩnh Mỗ, huyện Sơn Vi.
ĐOÀN NHÂN THỤC, người xã Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm.
BÙI DỤC TÀI, người xã [...] huyện Hải Lăng.
LÊ NHÂN TẾ , người xã Đại Nhuệ, huyện Hoằng Hóa.
Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, 34 người:
PHẠM KHIÊM BÍNH, người xã Lãm Sơn, huyện Quế Dương.
NGUYỄN VĂN KIỆT, người xã Mỹ Xá, huyện Ngự Thiên.
NGUYỄN DUY MINH, người xã Thượng Cốc, huyện Gia Lộc.
NGUYỄN KIM, người xã Thạch Lựu, huyện An Lão.
DOÃN MẬU KHÔI, người xã Yên Duyên, huyện Thượng Phúc.
NGUYỄN TỬ TRỌNG, người xã An, phuyện Hương Sơn.
CHỬ THIÊN KHẢI, người xã Cối Giang huyện Đông Ngàn.
LÊ DỰC, người xã Bối Khê huyện, Thanh Oai.
ĐỖ VĂN HIỆU, người xã Hữu Quang, huyện Yên Sơn.
HOÀNG TỬ NGHI, người xã Công Luận, huyện Văn Giang.
NGUYỄN VĂN HIẾN, người xã Yên Ninh, huyện Yên Dũng.
ĐINH TRINH, người xã Vị Khê, huyện Thanh Lan.
ĐÀO NHƯ HỔ, người xã Triều Đông, huyện Thượng Phúc.
HOÀNG NHẠC, người xã Hoàng Xá, huyện Đông Thành.
VŨ NGHI HƯỚNG, người xã Đại Vi, huyện Tiên Du.
BÙI TÂN,  người xã Kim Bảng, huyện Thiên Bản.
LÊ KIM CHƯƠNG, người xã Thanh Mai, huyện Yên Phong.
NGUYỄN THẾ MỸ, người xã Lang Khuê, huyện Tiên Lữ.
NGUYỄN TRỌNG HƯNG, người xã Đại Đồng, huyện Siêu Loại.
BÙI DOÃN CHÍNH, người xã Thắng Trí, huyện Bình Tuyền.
PHẠM TRÁNG, người xã Dũng Nhuệ, huyện Giao Thuỷ.
TRẦN LƯ, người xã Bình Vọng, huyện Thượng Phúc.
PHAN ĐÌNH MỤC, người xã Tây Hồ, huyện Quảng Đức.
NGUYỄN XUÂN LAN, người xã Thì Mại, huyện Bảo Lộc.
TRẦN HUYÊN, người xã Diên An, huyện Kim Động.
LÊ HIẾU TRUNG, người xã Chi Nê, huyện Chương Đức.
NGUYỄN ĐOAN, người xã Thụy Chương, huyện Quảng Đức.
LÊ ĐÌNH TƯỞNG, người xã Cao Mật, huyện Kim Bảng.
ĐÀO THÚC VIỆN, người xã Song Khê, huyện Yên Dũng.
NGUYỄN VĂN ĐỆ, người xã Yên Nhân, huyện Chương Đức.
VŨ BÁ HUYÊN, người xã Tùng Du, huyện Gia Phúc.
MẠC VĂN UY, người xã Mạc Xá, huyện Thanh Lâm.
NGUYỄN TỬ KIẾN, người xã Trạch Lôi, huyện Thạch Thất.
NGUYỄN MẬU, người xã Du La, huyện Thanh Hà.
           Quang lượng đại phu Trung thư giám Điển thư Chính tự khanh Phạm Định vâng viết chữ (chân).
           Thông chương đại phu Kim quang môn Đãi chiếu Chính khanh Nguyễn Toản vâng viết chữ triện.
           Bia dựng ngày 15 tháng 9 niên hiệu Đại Chính năm thứ 7 (1536)

 

 (Nguồn tư liệu Viện nghiên cứu Hán Nôm và Ban quản lý di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội)
COMMENTS
Chức năng này cần phải đăng nhập